Ngành BHXH Việt Nam đã góp phần quan trọng đưa đất nước trở thành quốc qia tiên phong về an sinh xã hội
04/02/2025 04:06 PM
Hiện tại bài viết chưa được cập nhật nội dung Âm thanh. Xin cảm ơn.
* PV: Ông đánh giá thế nào về hiệu quả mục tiêu an sinh xã hội đã được Đảng và Nhà nước đề ra trong quá trình thành lập và phát triển BHXH Việt Nam?
- Ông Bùi Sỹ Lợi:
BHXH luôn được Đảng và Nhà nước ta xác định là chính sách trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội, góp phần ổn định việc làm, thu nhập và đời sống NLĐ khi gặp phải những rủi ro trong cuộc sống.
Tuy nhiên, chính sách BHXH ở Việt Nam chỉ thực sự được thực hiện từ năm 1962, với sự ra đời của Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước ban hành kèm theo Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 của Hội đồng Chính phủ, bao gồm các chính sách chủ yếu về hưu trí, tử tuất, ốm đau, thai sản và TNLĐ và đối tượng chỉ bao gồm lao động khu vực nhà nước; NSNN chịu trách nhiệm chi trả các chế độ BHXH.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế-xã hội đất nước, chính sách BHXH không ngừng được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện phù hợp với đặc điểm kinh tế-xã hội của từng thời kỳ. Bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, với sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần, chính sách BHXH cũng từng bước được sửa đổi, bổ sung, mở rộng ra các khu vực kinh tế khác. Theo đó, việc Chính phủ ban hành Điều lệ BHXH kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995- lần đầu tiên đặt nền móng cho một chính sách BHXH dựa trên đóng góp của NLĐ và người SDLĐ với sự hỗ trợ của Nhà nước, phù hợp với điều kiện chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế.
Cho đến nay, với việc ra đời Luật BHXH (năm 2006, 2014, 2024), đặc biệt là Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách BHXH, chính sách BHXH đã hướng tới bao phủ mọi NLĐ (kể cả người có quan hệ lao động và người không có quan hệ lao động) thông qua hình thức BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. Chính sách BHXH đã từng bước được hoàn thiện, đồng bộ, phù hợp với thực tế đất nước và thông lệ quốc tế; ngày càng khẳng định và phát huy vai trò là trụ cột chính, đóng góp tích cực vào sự nghiệp an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước.
* Ông đánh giá thế nào về những kết quả mà ngành BHXH Việt Nam đã đạt được trong chặng đường 30 năm xây dựng và phát triển?
- Tính từ thời điểm được hình thành bằng Điều lệ tạm thời về BHXH (năm 1961) đến nay, chính sách BHXH ở Việt Nam đã có lịch sử phát triển 65 năm, với 2 thời kỳ lớn chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và 4 giai đoạn cải cách trong gần 40 năm đổi mới. Năm 1995, việc Chính phủ quyết định thành lập hệ thống BHXH Việt Nam trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH ở trung ương và địa phương thuộc ngành LĐ-TB&XH và Tổng LĐLĐ Việt Nam - đã đánh dấu bước chuyển quan trọng trong công tác quản lý quỹ BHXH và đổi mới công tác thực hiện chế độ, chính sách BHXH theo hướng tách bạch rõ chức năng quản lý nhà nước với tổ chức thực hiện chính sách.
Tiếp đó, năm 2002, Thủ tướng Chính phủ quyết định chuyển tổ chức, nhiệm vụ thực hiện chính sách BHYT từ Bộ Y tế sang BHXH Việt Nam. Quá trình này cho thấy những bước phát triển của hệ thống cơ quan BHXH 30 năm qua gắn liền với sự nghiệp đổi mới đất nước, là một trong những thành tựu dễ thấy nhất của đổi mới chính sách xã hội, đổi mới quan hệ lao động, góp phần vận hành chính sách BHXH theo cơ chế thị trường, đáp ứng nguyện vọng của NLĐ, thúc đẩy sự định hình ngày càng vững chắc hệ thống an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển đất nước và quỹ BHXH đã trở thành quỹ an sinh lớn nhất.
Vì thế, phạm vi và đối tượng tham gia BHXH, BHYT ngày càng được mở rộng, số người được hưởng các chế độ không ngừng gia tăng, việc đa dạng hình thức tham gia BHXH ngày càng thu hút sự quan tâm của người dân. Đến hết năm 2024, cả nước có trên 20,1 triệu người tham gia BHXH, chiếm khoảng 42,7% lực lượng lao động trong độ tuổi; trên 16 triệu người tham gia BH thất nghiệp, chiếm khoảng 34,1% lực lượng lao động trong độ tuổi; tỷ lệ bao phủ BHYT đã đạt 94% dân số; quỹ BHXH, BHYT không ngừng gia tăng với tổng số thu hơn 526.000 tỷ đồng. Chính sách BHXH, BHYT đã bảo đảm cuộc sống cho 3,4 triệu người nghỉ hưu; hơn 186 triệu lượt người được chi trả kinh phí KCB BHYT; gần 10 triệu lượt người được hưởng các chế độ BHXH, BH thất nghiệp.
Công tác cải cách TTHC luôn được chú trọng và đẩy mạnh. Theo đó, các TTHC thường xuyên được rà soát, đơn giản hóa, cắt giảm tối đa về quy trình, thủ tục, giấy tờ, biểu mẫu, thời gian thực hiện; ứng dụng hiệu quả công nghệ số, sửa đổi quy trình nghiệp vụ trên cơ sở kết nối, chia sẻ thông tin giữa các CSDL nhằm cắt giảm chi phí, tạo thuận lợi tối đa phục vụ người dân, DN khi giao dịch với cơ quan BHXH. BHXH Việt Nam là một trong 7 cơ quan hoàn thành 100% phương án đơn giản hóa TTHC, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư. Đặc biệt, cùng với cả hệ thống chính trị, BHXH Việt Nam đã nỗ lực, chủ động triển khai Đề án 06. Kết quả, toàn Ngành đã xác thực hơn 99,6 triệu thông tin nhân khẩu trong CSDL do BHXH Việt Nam quản lý với CSDL quốc gia về dân cư, trong đó có khoảng 89,5 triệu người đang tham gia và thụ hưởng chính sách BHXH, BHYT, BH thất nghiệp.
Đặc biệt, chỉ riêng với kết quả đạt được trong công tác chuyển đổi số đã góp phần xây dựng ngành BHXH Việt Nam theo đúng định hướng Chính phủ số, đáp ứng yêu cầu đảm bảo an sinh xã hội quốc gia. Đồng thời, BHXH Việt Nam tiếp tục duy trì trong nhóm 4 bộ, ngành dẫn đầu Bảng xếp hạng chỉ số chuyển đối quốc gia - đây là tiền đề để ngành BHXH Việt Nam tiếp tục triển khai thành công các nhiệm vụ được giao trong thời gian tới.
* Mặc dù đã đạt nhiều thành tựu nổi bật, song theo đánh giá chung, công tác BHXH, BHYT hiện nay vẫn còn gặp không ít khó khăn, tồn tại. Để sự nghiệp BHXH tiếp tục phát triển, đóng góp tích cực vào việc bảo đảm an sinh xã hội, theo ông, chúng ta cần có những giải pháp gì?
- Qua gần 40 năm đổi mới, với nhiều lần cải cách, Việt Nam đã lựa chọn và từng bước củng cố mô hình BHXH phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, với những thay đổi về dân số, lực lượng lao động, trình độ phát triển kinh tế-xã hội, yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách BHXH cũng bộc lộ không ít những tồn tại như: Diện bao phủ BHXH còn dưới mức tiềm năng, BHXH tự nguyện chưa thực sự thu hút NLĐ ở khu vực phi chính thức, thời gian đóng BHXH ngắn, mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH thấp so với thu nhập thực tế của NLĐ, số người nhận trợ cấp một lần tăng, tình trạng nợ đọng, chậm đóng BHXH giảm chưa đáng kể, quỹ BHXH ngắn hạn kết dư lớn...
Bối cảnh phát triển của quốc gia ở ngưỡng thu nhập trung bình với tốc độ già hóa dân số thuộc nhóm nhanh nhất thế giới, tuổi thọ trung bình tăng, sự gia tăng khoảng cách giàu-nghèo và bất bình đẳng xã hội, sự xuất hiện của các quan hệ lao động mới cùng quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đang đặt ra nhiều thách thức mới đối với nhiệm vụ cải thiện chất lượng an sinh xã hội. Trong đó, trọng tâm là mở rộng diện bao phủ và tăng cường tính bền vững của hệ thống BHXH, BHYT trên cơ sở phải giải quyết tốt các mối quan hệ lớn giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN; giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách BHXH đã hoạch định một cách căn cơ mục tiêu phát triển hệ thống BHXH linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế đến năm 2030, về dài hạn hướng đến bao phủ toàn dân. Đồng thời, xác định rõ những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, trong đó có nhiều nội dung cải cách cần được khẩn trương thể chế và tổ chức triển khai sớm; đồng thời có những chính sách cần có thời gian chuẩn bị và kiên trì, bền bỉ thực hiện trong một thời gian dài, gắn với tình hình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Bộ luật Lao động năm 2019 đã thể chế một bước việc điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu theo lộ trình, bãi bỏ hình thức lao động mùa vụ để hạn chế việc trốn đóng BHXH cho NLĐ, ghi nhận hình thức giao kết HĐLĐ thông qua phương tiện điện tử, quy định chính sách áp dụng một số tiêu chuẩn lao động đối với người làm việc không có quan hệ lao động, cùng một số điểm sửa đổi tương thích về điều kiện hưởng lương hưu trong Luật BHXH 2014. Cùng với đó, Luật BHXH năm 2024 đã thể chế các mục tiêu của Nghị quyết số 28-NQ/TW về mở rộng diện bao phủ, giảm số năm đóng BHXH để hưởng lương hưu, hạn chế NLĐ nhận BHXH một lần... Do vậy, những chủ trương, chính sách này cần được triển khai kịp thời, toàn diện, đồng bộ cả trên phương diện xây dựng, hoàn thiện chính sách và nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật về BHXH, BHYT.
Quan trọng hơn, ngành BHXH Việt Nam cần tiếp tục thực hiện các giải pháp cải cách trong tổ chức thực hiện chính sách BHXH, BHYT để củng cố niềm tin, tăng mức độ hài lòng của người dân đối với hệ thống BHXH thông qua việc đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật gắn với chỉ tiêu phát triển đối tượng; nỗ lực hiện đại hóa, tăng cường ứng dụng CNTT, nâng cao tính phục vụ, tạo sự thuận lợi, tiết kiệm thời gian, chi phí đối với người dân và DN; nâng cao năng lực quản trị, sắp xếp, tinh gọn bộ máy theo Nghị quyết 18-NQ/TW, tăng cường sự phối hợp chặt chẽ với các ngành liên quan để theo dõi chặt chẽ quá trình thành lập DN, khai trình lao động, thống kê lao động thuộc diện tham gia BHXH, kê khai thu nhập tiền lương và quản lý đối tượng tham gia BHXH đúng quy định; đẩy mạnh công tác thanh kiểm tra, xử lý vi phạm trong lĩnh vực BHXH, tạo chuyển biến tích cực, giảm thiểu tình trạng trốn đóng, nợ đóng BHXH, BHYT, BH thất nghiệp.
Cùng với đó, công tác tuyên truyền, vận động nhân dân phải thực sự đổi mới, đi vào thực chất để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của NLĐ trong việc bảo đảm an sinh lâu dài cho bản thân mình và gia đình. Đây là giải pháp cần được kiên trì thực hiện trước hết bằng chính lực lượng cán bộ, viên chức của Ngành thông qua công việc hàng ngày của mình. Cần gây dựng niềm tin, sự ủng hộ của người dân, DN từ chất lượng, hiệu quả giải quyết công việc, ý thức phục vụ của đội ngũ cán bộ, viên chức trong những công việc rất cụ thể như: Tuyên truyền, phát triển người tham gia, thu-chi, giải quyết các chế độ, nâng cao hiệu quả quản trị quỹ BHXH, BHYT. Mỗi cán bộ, viên chức ngành BHXH Việt Nam cùng nhận thức sâu sắc để gắn công tác vận động nhân dân với hoạt động nghiệp vụ từ những việc làm hàng ngày, nhất là trong điều kiện trình độ dân trí ngày càng cao, ý thức và vai trò làm chủ của nhân dân ngày càng được mở rộng, các phương tiện thông tin, mạng xã hội ngày càng đa dạng, đa chiều.
Nhân dịp nhìn lại 30 năm phát triển, với tư cách là một chuyên gia về chính sách xã hội tôi đánh giá cao những thành tựu nổi bật, bứt phá, tiên phong đi đầu trong chuyển đổi số của BHXH Việt Nam và tin tưởng, mong muốn mỗi cán bộ, viên chức ngành BHXH Việt Nam dù ở vị trí công việc nào cũng phát huy truyền thống đã đạt được trong thời gian qua để mỗi việc chúng ta đã và đang làm tiếp tục được nhân rộng, lan tỏa và tiếp tục đạt được những thành tựu cao hơn nữa, xứng đáng với vai trò đảm bảo bền vững trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội đất nước.
* Trân trọng cảm ơn ông!
Vũ Thu (Thực hiện) Đồ hoạ: Thanh An
Nghiên cứu ứng dụng AI vào nghiệp vụ của Ngành ...
Bảo hiểm xã hội: Có nên rút BHXH một lần?
Tuyên truyền, đối thoại chính sách BHXH, BHYT, ...
Phóng sự kỷ niệm Ngày BHYT Việt Nam 01/7/2024: ...
Bạn đánh giá thế nào về chất lượng phục vụ, cơ sở hạ tầng ngành BHXH Bình Thuận ?