Ngành BHXH Việt Nam: Dấu ấn rõ nét trong bảo đảm an sinh xã hội
14/02/2025 08:43 AM
Hiện tại bài viết chưa được cập nhật nội dung Âm thanh. Xin cảm ơn.
Với vai trò trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, chính sách BHXH, BHYT luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, coi đó là mục tiêu, động lực đối với sự phát triển bền vững đất nước. Sau 75 năm thực hiện chính sách BHXH và 30 năm thành lập BHXH Việt Nam, hệ thống chính sách BHXH của Việt Nam đã được hình thành tương đối đồng bộ và bao quát các chế độ theo thông lệ quốc tế.
30 năm qua, chính sách BHXH chuyển dần từ tự nguyện sang bắt buộc và đang trong lộ trình tiến tới BHXH toàn dân. Hệ thống chính sách này thiết kế cho các đối tượng khác nhau tham gia và quan trọng hơn là có sự chia sẻ giữa Nhà nước, người SDLĐ và NLĐ ở các mức độ khác nhau. Tính chất chia sẻ này đã góp phần quan trọng thay đổi nhận thức của người dân, giảm bớt sự ỷ lại vào Nhà nước, nâng cao trách nhiệm của người SDLĐ, NLĐ, từ đó tăng tính bền vững cho BHXH. Đặc biệt, quỹ BHXH đã trở thành quỹ tài chính ngoài NSNN lớn nhất, có sự bảo hộ của Nhà nước với sự tham gia của hàng chục triệu người dân để bảo đảm an sinh xã hội trong hiện tại cũng như tương lai.
Qua báo cáo giám sát tình hình thực hiện chính sách BHXH do Chính phủ gửi Quốc hội cho thấy, tổng số kết dư quỹ BHXH năm 2023 đạt gần 1,2 triệu tỷ đồng; tổng số dư đầu tư quỹ BHXH, BH thất nghiệp, BHYT lũy kế đạt trên 1,25 triệu tỷ đồng. Các hình thức đầu tư chủ yếu là mua trái phiếu Chính phủ, gửi tiền, mua trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi tại các ngân hàng thương mại có chất lượng, hoạt động lành mạnh theo xếp loại tín nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Về cơ bản việc cân đối thu, chi và đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH và BH thất nghiệp được quản lý chặt chẽ, đảm bảo an toàn, hiệu quả. Bên cạnh đó, sự công bằng trong hệ thống chính sách BHXH được thể hiện thông qua nguyên tắc đóng- hưởng, công bằng, chia sẻ. Quỹ BH hưu trí- tử tuất với mô hình tích lũy đang là quỹ dài hạn có tính chất chia sẻ giữa các thế hệ người lao động. Các quỹ BH ngắn hạn (ốm đau, TNLĐ-BNN, thất nghiệp) có tính chất chia sẻ giữa NLĐ trong cùng một thế hệ.
Qua 30 năm phát triển, BHXH Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu, được tặng nhiều phần thưởng của Đảng và Nhà nước cho sự nghiệp an sinh xã hội. Song giai đoạn tới việc thực hiện BHXH cũng nhiều thách thức như: Việc mở rộng và phát triển đối tượng tham gia BHXH còn thấp, độ bao phủ BHXH chậm. Hiện mới có trên 20 triệu người (chiếm khoảng 42% lực lượng lao động trong độ tuổi) tham gia BHXH, còn 30 triệu người trong độ tuổi lao động (chiếm gần 68%) chưa tham gia BHXH. Nếu không có sự chuyển đổi, trong thời gian tới, số lượng người già, người khi hết tuổi lao động không được hưởng BHXH là rất lớn và sẽ tạo gánh nặng cho gia đình, xã hội cũng như tác động tiêu cực đến chính sách an sinh xã hội.
Bên cạnh đó, dù tình trạng nợ đọng BHXH đã giảm rất nhiều so với trước, song vẫn còn tồn tại các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH, tình trạng trốn đóng, nợ đóng, gian lận, trục lợi BHXH ở địa phương, DN diễn biến phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của NLĐ dẫn đến nguy cơ mất ổn định quỹ BHXH và gián tiếp làm giảm niềm tin của NLĐ đối với chính sách BHXH. Mặt khác, hệ thống chính sách, pháp luật BHXH dù đã được quan tâm xây dựng, hoàn thiện, nhưng vẫn chưa theo kịp tình hình thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, chưa tạo động lực, sức hút đối với NLĐ, nhất là lao động ngoài khu vực nhà nước tham gia BHXH.
Qua 30 năm hoạt động, hệ thống BHXH Việt Nam đã có bước phát triển rất rõ, từ chỗ chính sách chỉ được quy định trong một chương của Bộ luật Lao động, thì nay đã được cụ thể hoá thành Luật BHXH và có rất nhiều đóng góp cho sự nghiệp an sinh xã hội. Theo đó, diện bao phủ BHXH được mở rộng, đối tượng tham gia BHXH tăng lên qua từng năm; nguồn thu và quỹ BHXH tăng lên tương ứng với số người tham gia tăng. Quỹ BHXH được sử dụng hợp lý hơn, phần quỹ nhàn rỗi được đầu tư nhằm tăng trưởng và góp phần tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội; việc chi trả lương hưu đầy đủ và kịp thời.
Theo Luật BHXH, phạm vi đối tượng được mở rộng, thực hiện thêm loại hình BHXH tự nguyện có sự liên thông với BHXH bắt buộc với sự hỗ trợ của Nhà nước. Xác định cụ thể vai trò của Nhà nước đối với hoạt động BHXH; quy định cụ thể về quyền và trách nhiệm của người SDLĐ, NLĐ, tổ chức BHXH trong việc đảm bảo thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ BHXH đối với NLĐ. Quy định mức hưởng BHXH căn cứ vào mức đóng BHXH, thời gian đóng BHXH có tính đến chia sẻ giữa những người tham gia BHXH…
Đáng chú ý, công tác BHXH, BHYT đã đạt được nhiều kết quả nổi bật thông qua việc thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng, đưa chính sách vào cuộc sống và góp phần bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện tốt công tác chi trả lương hưu cho các đối tượng trên khắp các vùng miền của Tổ quốc. Đối với 2 chế độ dài hạn là hưu trí và tử tuất, ngoài việc chi trả cho các đối tượng do NSNN đảm bảo, năm 1996, số người hưởng hưu trí, tử tuất từ quỹ BHXH khoảng 13.300 người, đến nay lên tới 3,4 triệu người. Số người thụ hưởng từ quỹ hưu trí và tử tuất tăng nhanh, nhưng BHXH Việt Nam vẫn đảm bảo thực hiện chi trả, điều chỉnh lương hưu cho người hưởng hàng tháng kịp thời, đúng đối tượng, góp phần đảm bảo ổn định xã hội.
Thông qua phản ánh của dư luận cũng như qua công tác giám sát, chúng tôi nhận thấy, BHXH Việt Nam đã tích cực, chủ động phát huy theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, đáp ứng sự hài lòng của người dân. BHXH đã tạo bước đột phá rất quan trọng trong việc xây dựng chính sách, góp phần tích cực trong việc ổn định chính sách an sinh của đất nước. Vai trò, đóng góp của BHXH Việt Nam giúp ổn định đời sống của NLĐ; giúp NLĐ giảm rủi ro lúc ốm đau, tai nạn, mắc bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp cũng như giúp NLĐ sớm trở lại trạng thái bình thường, có việc làm và nâng cao đời sống.
BHXH cũng là “công cụ” đắc lực nhất để phân phối lại sản phẩm, chia sẻ cho người khó khăn, góp phần tích cực ổn định an ninh chính trị và trật tự xã hội. Đặc biệt, ngành BHXH Việt Nam đã tạo đà trong việc định hướng đất nước phát triển, giảm gánh nặng đáng kể cho ngân sách dùng để trợ cấp đối tượng người già gặp khó khăn khi không có lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng. Nhờ có BHXH định hướng, nên cho người dân đã hiểu được và tích cực tham gia đóng BHXH.
Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển mới, đặc biệt khi Luật BHXH 2024 đi vào thực tiễn, BHXH Việt Nam cần chỉ đạo các đơn vị trong hệ thống chủ động tham mưu, đưa ra các định hướng và gắn kết với các Đoàn ĐBQH nhằm thực hiện có hiệu quả chính sách. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; nâng cao công tác tuyên truyền hướng đến mở rộng bền vững diện bao phủ, tiến tới BHXH, BHYT toàn dân; đồng thời phải có lộ trình phát triển BHXH, BHYT vừa đảm bảo tính cấp bách, vừa đảm bảo tính chiến lược, liên kết và hài hoà. Đặc biệt, BHXH Việt Nam có những định hướng để nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ cán bộ, viên chức nhằm không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ, đáp ứng ngày càng cao sự hài lòng của người dân…
Trong 30 năm qua đã chứng minh sự ra đời của BHXH Việt Nam là rất đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tiễn. Cùng với thời gian, chính sách BHXH, BHYT, BH thất nghiệp ngày càng hoàn thiện, bám sát thực tiễn cuộc sống. Bên cạnh nguyên tắc có đóng- có hưởng, chính sách BHXH, BHYT luôn thể hiện tính nhân văn thông qua việc chăm lo cho người nghèo, người cao tuổi, các đối tượng chính sách xã hội… bằng việc Nhà nước cấp thẻ BHYT cho người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, đối tượng NCC với cách mạng; hỗ trợ người cận nghèo, HSSV, hộ gia đình làm nông- lâm- ngư nghiệp tham gia BHYT; hỗ trợ người dân, người cận nghèo, người nghèo tham gia BHXH tự nguyện… Đây chính là “điểm sáng” của chính sách BHXH, BHYT.
Sau nhiều năm thực hiện Luật BHXH, trong đó có các chế độ BHXH ngắn hạn, đã phát huy tác dụng tích cực trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ; cũng như góp phần bảo đảm tốt hơn thu nhập, đời sống cho các đối tượng tham gia BHXH không may gặp rủi ro như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động… Tuy nhiên, trong việc thực hiện các chế độ BHXH ngắn hạn còn xảy ra tình trạng lạm dụng, trục lợi; người bệnh, cơ sở y tế còn lạm dụng quỹ BHYT khi lạm dụng các chỉ định, xét nghiệm, kê đơn thuốc...
Do đó, muốn xây dựng được nguồn quỹ BHXH, BHYT vững mạnh phải bắt đầu từ quan điểm đúng đắn, nhận thức đầy đủ của người dân, DN về chính sách này. Nắm bắt được mối quan hệ đó, từ nhiều năm nay, BHXH Việt Nam đã tổ chức tuyên truyền chính sách, trả lời những vướng mắc của người dân, NLĐ trong việc tham gia và hưởng BHXH, BHYT, nhất là đề cao trách nhiệm, nghĩa vụ thực hiện BHXH, BHYT. Qua những buổi tuyên truyền, tập huấn, Luật BHXH, Luật BHYT đã đi vào cuộc sống của NLĐ, nhận thức của DN ngày càng nâng cao so với những năm trước.
Khi các chế độ BHXH ngày càng mở rộng, diện bao phủ BHXH ngày càng lớn, quan hệ giữa BHXH Việt Nam, người dân và DN càng cần phải chặt chẽ, hiệu quả hơn, đặc biệt là trong giải quyết các chế độ cho NLĐ. Đồng thời, để tạo sức hấp dẫn cho chính sách, yếu tố trọng tâm chính là đội ngũ cán bộ, viên chức BHXH cần có tâm, linh hoạt, nhưng vẫn phải đảm bảo đúng quy định... qua đó giúp người dân, NLĐ thấy rõ tính ưu việt của BHXH và tham gia đầy đủ hơn. Như vậy, yếu tố con người trong tổ chức thực hiện chính sách BHXH, BHYT là “cửa ngõ” để tăng tính hấp dẫn và tạo động lực thúc đẩy người dân, NLĐ và DN tuân thủ pháp luật, mở rộng đối tượng tham gia BHXH theo đúng tinh thần Nghị quyết số 28-NQ/TW cũng như các quy định của pháp luật có liên quan.
Trong giai đoạn tới, BHXH Việt Nam cần tiếp tục đổi mới hơn nữa công tác phục vụ, cải cách TTHC và nâng cao chất lượng dịch vụ, hướng đến xây dựng chế độ BHXH hợp lý, hài hòa lợi ích. Khi người dân, NLĐ thực sự được coi trọng, tiếp cận với các chính sách dễ dàng, được phục vụ, chăm sóc chu đáo- cũng có nghĩa ngành BHXH Việt Nam đã khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong xã hội.
Trong các giai đoạn phát triển của đất nước, hệ thống chính sách BHXH, BHYT ngày càng phát triển hơn, phù hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội từng thời kỳ. Hệ thống pháp lý, chính sách về an sinh xã hội nói chung và chính sách về BHYT nói riêng đã dần đáp ứng, đảm bảo tinh thần Hiến pháp năm 2013. Trong 30 năm qua, với trọng trách được Quốc hội và Chính phủ giao, BHXH Việt Nam đã có nhiều nỗ lực, cố gắng thực hiện hiệu quả chính sách BHXH, BHYT, nên đã đạt được nhiều kết quả đáng chú ý.
Đáng chú ý, mô hình tổ chức hệ thống BHXH, BHYT của BHXH Việt Nam ngày càng được hoàn thiện theo chủ trương của Đảng về cải cách, tinh gọn bộ máy. Công tác truyền thông chính sách, pháp luật BHXH, BHYT ngày càng đổi mới theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả, tạo sự chuyển biến rõ nét trong nhận thức và hành động của các tổ chức, cá nhân về vai trò, trách nhiệm, cũng như mục đích, ý nghĩa của việc tham gia BHXH, BHYT.
Đáng chú ý, so với một số quốc gia phát triển trên thế giới, để đạt được mục tiêu BHYT toàn dân phải mất 40-80 năm, nhưng Việt Nam chỉ cần 1/4 thế kỷ đã tiệm cận được mục tiêu này. Số người thụ hưởng BHXH, BHYT không ngừng tăng, khi bình quân mỗi năm có hàng chục triệu lượt người hưởng các chế độ BHXH, hàng trăm triệu lượt người hưởng chế độ BHYT. Việc chi trả chế độ BHXH, BHYT được thực hiện kịp thời, phương thức chi trả được đổi mới theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho người hưởng. Đặc biệt, tỷ lệ chi từ quỹ BHXH ngày càng tăng, tỷ lệ chi từ NSNN cho BHXH ngày càng giảm- đã khẳng định quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà nước là khuyến khích người dân nâng cao năng lực tự bảo đảm an sinh xã hội.
Chính sách BHXH, BHYT đang ngày khẳng định vị trí, vai trò trụ cột, mang tính ưu việt trong hệ thống chính sách an sinh xã hội của nước ta. Song, chính sách này sẽ không đi vào thực tiễn nếu như không có quyết tâm chính trị cao, những hành động quyết liệt và giải pháp phù hợp, đặc biệt công tác truyền thông không tốt thì BHXH, BHYT không đến được với nhân dân. Từ đó, việc bảo đảm an sinh xã hội cho người dân sẽ rất hạn chế. Do vậy, việc lựa chọn hình thức, phương pháp vận động, truyền thông luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
Để đạt được mục tiêu phát triển đối tượng tham gia, mở rộng độ bao phủ BHXH, BHYT đến toàn bộ lực lượng lao động và người dân, tôi đề nghị các bộ, ngành, cấp ủy, chính quyền các cấp cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ, tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả chính sách BHXH, BHYT, đưa chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia vào chỉ tiêu phát triển kinh tế-xã hội hàng năm, xem đây là tiêu chí quan trọng trong các chỉ tiêu phát triển kinh tế-xã hội của từng địa phương.
Chúng tôi cũng đánh giá cao kết quả BHXH Việt Nam đạt được sau 15 năm triển khai thực hiện Luật BHYT. Diện bao phủ BHYT ngày càng được mở rộng, số người tham gia BHYT tăng nhanh qua các năm, khi bình quân mỗi năm tăng 48%, hết năm 2024 đã có trên 95,5 triệu người tham gia BHYT và diện bao phủ đã tập trung vào các nhóm yếu thế. Như vậy, về cơ bản, Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu BHYT toàn dân- điều này đã khẳng định quan điểm đúng đắn của Đảng, Nhà nước trong việc khuyến khích người dân nâng cao năng lực tự bảo đảm an sinh xã hội.
Tôi đánh giá cao vai trò quan trọng của ngành BHXH Việt Nam trong việc thực hiện an sinh xã hội, chăm lo đời sống nhân dân và an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tôi mong muốn ngành BHXH Việt Nam tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, tích cực tuyên truyền, vận động người dân tham gia BHYT, BHXH, không rút BHXH một lần, để góp phần đảm bảo an sinh xã hội và chia sẻ lợi ích với cộng đồng.
Nhìn lại kết quả 30 năm qua, toàn ngành BHXH Việt Nam đã nỗ lực thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, đạt nhiều kết quả ấn tượng trên nhiều phương diện. Trong đó, nhiều kết quả đã tạo dấu ấn rõ nét, tiếp tục khẳng định vai trò trụ cột của chính sách BHXH trong hệ thống an sinh xã hội, góp phần nâng cao vị thế cho Ngành. Cụ thể: Diện bao phủ BHXH được mở rộng với hơn 20 triệu người tham gia, đạt 42,7% lực lượng lao động trong độ tuổi. Trong đó, về BHXH tự nguyện có khoảng 2,3 triệu người tham gia, đạt 4,8% lực lượng lao động và tăng 10,2 lần so với năm 2027- năm trước khi Nghị quyết số 28-NQ/TW được ban hành. Như vậy, chỉ với chỉ tiêu tham gia BHXH tăng, nhất là trong hoàn cảnh đất nước còn gặp nhiều khó khăn do dịch COVID-19 để lại, đã một lần nữa khẳng định sự quyết tâm, nỗ lực không ngừng của toàn thể cán bộ, viên chức ngành BHXH Việt Nam trong thực thi nhiệm vụ.
Dù kết quả mở rộng diện bao phủ BHXH, BHYT vượt chỉ tiêu Quốc hội và Chính phủ giao, song tôi nhấn mạnh, ngành BHXH Việt Nam cần quan tâm hơn nữa để tỷ lệ này đạt bền vững. Muốn vậy, toàn Ngành cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về BHXH, BHYT, nhất là những điểm mới của Luật BHXH 2024 và Luật BHYT 2024 vừa được Quốc hội thông qua. Đồng thời, quản lý tốt quỹ KCB BHYT; tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật BHXH, BHYT. Toàn ngành BHXH Việt Nam cũng cần chủ động tham mưu với các cấp ủy, chính quyền và coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng cần chung tay góp sức thực hiện thật tốt; đẩy mạnh cải cách TTHC, nâng cao chất lượng phục vụ người dân, DN; tiếp tục phối hợp với các ngành liên quan và UBND các địa phương đẩy nhanh phát triển người tham gia BHXH, BHYT, hướng tới mục tiêu BHXH, BHYT toàn dân.
Thông qua các cuộc tiếp xúc cử tri, tôi thấy Luật BHYT đã thực sự đi vào cuộc sống, độ bao phủ BHYT chiếm tỷ lệ ngày càng cao- hiện đạt trên 94% dân số, chất lượng dịch vụ y tế ngày càng đáp ứng nhu cầu của người tham gia BHYT; quyền, lợi ích giữa người tham gia BHYT với cơ sở KCB từng bước được hài hòa, đặc biệt là người tham gia BHYT không phải chi trả nhiều tiền khi đi KCB- đây là động lực chính góp phần bảo đảm an sinh xã hội. Hiện nay, Đảng và Nhà nước đã có nhiều cố gắng trong thực hiện chính sách an sinh xã hội, đặc biệt đã bổ sung thêm nhiều đối tượng được Nhà nước hỗ trợ đóng BHYT. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, những nhóm đối tượng được Nhà nước hỗ trợ đóng BHYT vẫn còn rất khó khăn, dẫn đến tính bền vững không cao. Do đó, ngành BHXH Việt Nam cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, địa phương liên quan đánh giá, đề xuất giải pháp thực hiện phù hợp…
So với các nước, chính sách BHXH, BHYT ở Việt Nam còn non trẻ, nhưng lại mang ý nghĩa rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng CNXH. Bởi, BHXH, BHYT đã thực sự trở thành một công cụ đắc lực và hiệu quả giúp Nhà nước điều tiết xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đối với NLĐ, BHXH góp phần giúp họ ổn định cuộc sống, yên tâm công tác, tạo cho họ một niềm tin vào tương lai. Từ đó, góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất lao động cũng như chất lượng công việc cho đơn vị nói riêng và toàn xã hội nói chung.
Đối với xã hội, quỹ BHXH không những tác động tới quá trình phát triển kinh tế của đất nước, mà còn góp phần tạo ra những cơ sở sản xuất kinh doanh mới, việc làm mới cho NLĐ, từ đó giải quyết tình trạng thất nghiệp, tăng thu nhập cho NLĐ... dưới nhiều hình thức khác nhau như hình thức đầu tư phát triển phần “nhàn rỗi” của quỹ. Như vậy, BHXH là một trong những chính sách xã hội quan trọng không thể thiếu của mỗi quốc gia, nhằm ổn định đời sống kinh tế-xã hội và góp phần làm vững chắc thể chế chính trị.
Trải qua các giai đoạn phát triển, Việt Nam đã hình thành được hệ thống chính sách BHXH khá đồng bộ, bao quát hầu hết các chế độ theo thông lệ quốc tế, gồm cả loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện; đối với cả người có quan hệ lao động lẫn người không có quan hệ lao động; cho cả khu vực kinh tế chính thức lẫn khu vực phi chính thức. Hệ thống chính sách BHXH, các quan hệ BHXH được thiết kế, điều chỉnh và vận hành ngày càng phù hợp. Quỹ BHXH đã trở thành quỹ nhà nước ngoài ngân sách lớn nhất, hoạt động theo nguyên tắc đóng-hưởng và chia sẻ giữa những NLĐ cùng thế hệ và giữa các thế hệ tham gia BHXH. Diện bao phủ BHXH theo quy định của pháp luật, quy mô tham gia BHXH trên thực tế ngày càng được mở rộng.
Những năm qua, chế độ, chính sách BHXH, BHYT liên tục được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội của quốc gia; tiền lương, tiền công làm căn cứ tính hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH cũng được điều chỉnh hàng năm. Song hành với đổi mới về chính sách, ngành BHXH Việt Nam cũng rất chú trọng ứng dụng CNTT để nâng cao năng lực quản lý, điều hành; giám sát chặt chẽ các hoạt động thu-chi; ngăn chặn, giảm thiểu tác hại do các hành vi lạm dụng, trục lợi quỹ gây ra, qua đó đảm bảo sử dụng hiệu quả các quỹ BHXH, BHYT; quyền lợi của người dân và NLĐ luôn được đảm bảo và thực hiện ngày càng tốt hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, còn một số hạn chế như: Diện bao phủ BHXH tại một số địa phương tăng chưa bền vững, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người tham gia và công tác đảm bảo an sinh xã hội; tình trạng lạm dụng, trục lợi quỹ BHXH vẫn diễn ra ở một số địa phương dưới nhiều hình thức phức tạp… Chính vì vậy, BHXH Việt Nam cần chủ động nắm bắt, đánh giá những vướng mắc trong tổ chức thực hiện chính sách; phối hợp với các ngành, các cấp đề xuất, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các quy định phù hợp. Đặc biệt, quản lý cơ chế tài chính các quỹ đảm bảo đúng quy định, an toàn, bền vững, tối ưu hóa phương án đầu tư quỹ…
Thực tiễn cho thấy, BHXH là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển của mỗi quốc gia và ở một mức độ nhất định, phản ánh trình độ phát triển của quốc gia đó. Các quốc gia xây dựng hệ thống chính sách BHXH đều theo đuổi 3 nguyên tắc: Công bằng hướng tới mở rộng độ bao phủ của chính sách- mọi NLĐ đều có thể tiếp cận, tham gia và hưởng lợi từ chính sách BHXH; tuân thủ nguyên tắc đóng-hưởng và đảm bảo bền vững về tài chính- đảm bảo khả năng cân đối giữa mức đóng góp và mức hưởng thụ từ hệ thống; có sự chia sẻ giữa những thành viên tham gia vào hệ thống BHXH, chia sẻ giữa các chính sách trong hệ thống.
Tại nước ta, ngành BHXH Việt Nam ra đời năm 1995 đã đặt nền móng cho một chính sách BHXH dựa trên đóng góp của NLĐ và người SDLĐ, với sự hỗ trợ của Nhà nước, phù hợp với điều kiện chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế. Cho đến nay, quỹ BHXH đã trở thành quỹ an sinh lớn nhất với số chi và tỷ lệ chi ngày càng tăng, giảm dần số chi và tỷ lệ chi từ NSNN cho các chính sách này. Quỹ BHXH hiện đang chi trả cho trên 3,4 triệu người hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng, mỗi năm chi trả cho trên 10 triệu lượt người hưởng các chế độ ốm đau, thai sản… Ngoài ra, với số kết dư quỹ BHXH lớn, thông qua việc đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, đầu tư vào các dự án quan trọng, đã góp phần tạo ra nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế-xã hội trong dài hạn.
BHXH Việt Nam là cơ quan tổ chức thực hiện chế độ, chính sách BHXH, BHYT, BH thất nghiệp, nên những năm qua đã tích cực tham gia, kiến nghị cơ quan nhà nước trong quá trình xây dựng chính sách hỗ trợ người dân và DN. Việc tổ chức thực hiện tốt các chính sách không chỉ giúp DN giữ vững, phát triển sản xuất kinh doanh, mà còn đảm bảo việc làm cho NLĐ, là một phương thức tích cực đảm bảo cho việc phát triển người tham gia BHXH, BHYT. Bên cạnh đó, ngành BHXH Việt Nam đã duy trì tích cực các giải pháp, biện pháp nghiệp vụ, nhằm phát hiện và hướng dẫn DN, cơ sở sản xuất kinh doanh tham gia BHXH cho NLĐ đúng quy định; đồng thời phối hợp với các cơ quan liên quan thực hiện thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm, kịp thời các trường hợp cố tình lợi dụng dịch bệnh, lợi dụng chính sách của Nhà nước để trốn đóng, chậm đóng BHXH.
Qua theo dõi, chúng tôi cũng nhận thấy, BHXH Việt Nam đã chủ động bám sát các chỉ đạo của Chính phủ để triển khai đồng bộ nhiều giải pháp hỗ trợ người dân và DN trong thực hiện chính sách BHXH, BHYT như: Cung cấp 100% dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4 (gửi hồ sơ, nhận và trả kết quả trực tuyến) trên Cổng Dịch vụ công quốc gia; chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH qua tài khoản ATM; đảm bảo tốt nhất quyền lợi của người tham gia BHYT…
Thực hiện: Nguyệt Hà Trình bày: Hà Hùng
Nghiên cứu ứng dụng AI vào nghiệp vụ của Ngành ...
Tuyên truyền, đối thoại chính sách BHXH, BHYT, ...
Phóng sự kỷ niệm Ngày BHYT Việt Nam 01/7/2024: ...
[Phóng sự] BHXH Việt Nam - 30 năm hành trình an ...
Bạn đánh giá thế nào về chất lượng phục vụ, cơ sở hạ tầng ngành BHXH Bình Thuận ?